Linh địa Lộ Đức trở thành điểm hành hương Công giáo kể từ năm 1858, khi Đức Mẹ hiện ra 18 lần cho chị Bernadette Soubirous thị kiến ở hang đá Grotte de Massabielle. Tuy nhiên sau đó, Amselme Lacadé – xã trưởng lúc bấy giờ đã ngăn cấm tín hữu đến khu vực này bằng cách xây một hàng rào gỗ. Chỉ ít lâu sau, đến ngày 10.1858, ông phải nhượng bộ để cho mọi người đến hang Massabielle bởi sức ép của toàn thể dân chúng và của cả nữ hoàng Eugénie – vợ của hoàng đế Napoléon III.
Linh địa Lộ Đức trở thành điểm hành hương Công giáo kể từ năm 1858, khi Đức Mẹ hiện ra 18 lần cho chị Bernadette Soubirous thị kiến ở hang đá Grotte de Massabielle. Tuy nhiên sau đó, Amselme Lacadé – xã trưởng lúc bấy giờ đã ngăn cấm tín hữu đến khu vực này bằng cách xây một hàng rào gỗ. Chỉ ít lâu sau, đến ngày 10.1858, ông phải nhượng bộ để cho mọi người đến hang Massabielle bởi sức ép của toàn thể dân chúng và của cả nữ hoàng Eugénie – vợ của hoàng đế Napoléon III.
Linh địa tại thành phố Lourdes – điểm hành hương, điểm du lịch say đắm lòng người
Khi đặt chân đến linh địa, bạn sẽ cảm nhận được bầu không khí đặc biệt, trong lành, gần gũi khi hòa mình giữa những người từ khắp nơi về hành hương với mục đích được gia tăng thêm đức tin, đức cậy và đức mến. Quang cảnh của linh địa Lộ Đức tại thành phố Lourdes nước Pháp gợi lên trong lòng khách du lịch và khách hành hương sự lắng động, an lành, tĩnh tâm, hòa cùng thiên nhiên với núi, với sông hồ và cỏ cây hoa lá.
Mặc dù linh địa Lộ Đức ở Pháp là một điểm hẹn rất quan trọng của những người Công giáo, tuy nhiên, người Việt chúng ta khó có thể hình dung được vị trí, quy mô cũng như những sự kiện diễn ra tại Lộ Đức. Vì thế, loạt bài viết này sẽ gửi đến quý độc giả những thông tin cơ bản nhất, hỗ trợ tốt nhất cho chuyến du lịch hành hương Công giáo trong thời gian sắp tới.
Những đoàn hành hương Công giáo trên vùng đất linh thiêng Lourdes
Bernadette Soubirous sinh vào ngày 07 tháng 01 năm 1844 tại nhà xay bột Boly là con gái đầu lòng của ông Francois Soubirous và bà Louise Castérot. Chị có một thời niên thiếu rất đỗi cơ cực. Năm 14 tuổi, trong một lần đi lượm củi và xương khô, Chị Bernadette đã tận mắt thấy Đức Mẹ hiện ra lần thứ nhất (ngày 11 tháng 2 năm 1858).
Từ lần thứ nhất vào ngày 11 tháng 2 năm 1858 đến ngày 16 tháng 7 năm 1858, Chị Bernadette đã nhìn thấy Đức Mẹ hiện ra 18 lần. Trong rất nhiều lần gặp mặt, tuy nhiên đến lần thứ 16 vào ngày 25 tháng 3 năm 1858 cũng là hình ảnh người phụ nữ mặc áo trắng, đội khăn trắng, thắt lưng màu xanh da trời, dưới chân là một đóa hoa hồng màu vàng, người cho biết danh hiệu của mình rằng: “Que soy era immaculada councepciou” – “Ta là đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội”.
Vương cung Thánh Đường Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên tội – Basilica of Immaculate Conception
Lần cuối cùng tức lần thứ 18 vào ngày 16 tháng 7 năm 1858, Chị Bernadette nhìn thấy Đức Mẹ hiện ra và đã thốt lên “Vâng, vâng, Mẹ đó! Mẹ mỉm cười với chúng ta và chào chúng ta bên trên hàng rào. Chưa bao giờ tôi thấy Mẹ đẹp như vậy” trong lúc rất nhiều người đang quỳ gối và cầu nguyện.
Kể từ khi ấy, Chị Bernadette đã cảm nhận được ơn gọi nhưng không biết tu ở đâu, vì hoàn cảnh khó khăn nên chưa bao giờ chị được học đạo, chỉ thuộc được một hai bài kinh cầu nguyện do gia đình truyền cho. Mãi đến năm 16 tuổi, chị mới được các nữ tu dạy đọc và viết. Sau tám năm (1866), khi 22 tuổi, Chị Bernadette đã được nhận vào Dòng Nữ tu Bác Ái Nevers, có tên tiếng Pháp là “des Soeurs de la Charité de Nevers”. Ngày 29 tháng 7 năm 1866, chị chính thức khoác lên người bộ tu phục, nhận tên tu trì là Marie-Bernard. Tuy nhiên, sức khỏe của Chị Marie-Bernard yếu dần, sau 13 năm trong dòng tu, Chị qua đời vào ngày 16 tháng 4 năm 1879 tại Nevers, thọ 35 tuổi, linh cữu trong quan tài làm bằng kính trong suốt tại nhà thờ La Chapelle Saint-Gildard ở Nevers và đây cũng là điểm hành hương Công giáo rất quan trọng.
Nhà thờ La Chapelle Saint-Gildard ở Nevers nơi thánh Bernadette yên nghỉ
Sau khi mất, Đức Giáo hoàng Piô XI đã phong cho Chị là người tử đạo ngày 14.06.1925, đến ngày 08.12.1933 được tuyên thánh là Thánh Bernadette (Marie-Bernard Soubirous) đồng thời ngày lễ thánh của Chị được ấn định diễn ra ngày 16 tháng 4 hằng năm.
Ở phần 1, bài viết đã khái quát lịch sử hình thành Linh địa Lộ Đức tại thành phố Lourdes nước Pháp với câu chuyện về thánh nữ Bernadette – người từng nhìn thấy Đức Mẹ hiện ra 18 lần. Và phần 2 tiếp theo sẽ đưa bạn đến những địa điểm linh thiêng tại thánh địa này. Nhớ đón đọc nhé!
Hãy liên hệ ngay với Intertour để đăng ký tour du lịch Châu Âu hoặc một tour hành hương Công giáo, chúng tôi tin chắc rằng, bạn sẽ có những trải nghiệm thú vị và một hành trình đầy ấp kỷ niệm.
CÔNG TY CỔ PHẦN DU LỊCH INTERTOUR VIỆT NAM
– Địa chỉ: 115 Nguyễn Thái Bình – Quận 1 – TPHCM – Điện thoại: 028. 3822 9999 – Hotline 24/24: 0961 118899 – Email: [email protected]
Từ Paris, chúng tôi đi TGV đến Lộ Đức. Chỗ ngồi trên TGV rộng rãi hơn trên máy bay nên thoải mái đọc sách và gõ bàn phím. Tàu cao tốc chạy rất nhanh nên khoảng 6 tiếng là đến nơi. Sau cơm trưa tại một tiệm ăn Việt Nam, chúng tôi có cả buổi chiều tự do đi dạo và tìm hiểu.
Trung Tâm Thánh Mẫu Lộ Đức là một quần thể bao gồm: Đại vương cung thánh đường với 2 tầng: Vương Cung Thánh Đường Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội (tầng trên) và Vương Cung Thánh Đường Đức Mẹ Mân Côi (tầng dưới), được xây dựng ngay trên vách đá, nơi có hang đá Massabielle, Đức Maria đã hiện ra với thánh nữ Bernadette. Cũng chính nơi hang đá này, lời Đức Mẹ nói với thánh nữ Bernadette : “Con hãy đến uống và rửa tại suối này” được viết bằng nhiều thứ tiếng, trong đó bản tiếng Việt được treo gần hang đá nhất. Bên phải là dòng sông Gave de Pau trong xanh, nước lững lờ chảy. Một công viên rộng với thảm cỏ xanh mát được chăm sóc cẩn thận. Bên trái là đồi Calvaire, có 15 đường thánh giá dựng trên địa hình của núi đá tự nhiên giúp khách hành hương suy ngẫm cuộc Khổ nạn và Phục Sinh của Chúa Giêsu. Phía trước là quảng trường rộng lớn có đường kiệu bao quanh và Vương cung Thánh đường Pio X, do kiến trúc sư Pierre Vago thiết kế, xây ngầm dưới lòng đất với sức chứa trên 25.000 người, tựa như hai chiếc thuyền lớn úp ngược lên nhau, khiến người ta có cảm giác đang ở trong một con tàu thực sự. Ngoài ra còn một hệ thống các nguyện đường nơi chầu Thánh Thể, lần hạt Mân Côi, cử hành Bí tích Hòa Giải, các phòng thông tin, chiếu phim, hội họp, bệnh viện, nhà khách…
Lịch một ngày hành hương của Lộ Đức được phân chia theo ý tưởng “qua Đức Maria đến với Đức Kitô”, tập trung chủ yếu vào mầu nhiệm Đức Kitô và Thánh Thể là trung tâm của toàn bộ một ngày hành hương Lộ Đức. 8g30 sáng khách hành hương sẽ đi đường thánh giá. 11g thánh lễ. Buổi chiều 17g rước kiệu Thánh Thể, chầu Thánh Thể và ban phép lành Thánh Thể cho bệnh nhân. 18g lần hạt ngay tại hang đá nơi Đức Mẹ hiện ra. 21g rước kiệu tôn vinh Đức Mẹ. Và kết thúc một ngày hành hương là thánh lễ lúc 23g cũng tại hang đá này. Ngoài ra, khách hành hương được mời gọi tự do tham gia các hoạt động khác như tham dự giờ giáo lý, chầu Thánh Thể riêng, lãnh nhận Bí tích Hòa giải, theo bước hành trình của thánh nữ Bernadette, thăm viếng nhà thánh nữ, bảo tàng Bernadette…
Lộ Đức là một trung tâm hành hương Đức Mẹ rất lớn và nổi tiếng của Giáo Hội. Đức Cố Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tới đây 2 lần vào ngày 15-8-1983 và ngày 14.15-8-2004. Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã hành hương đến đây vào tháng 9-2008, nhân kỷ niệm 150 năm ngày Đức Mẹ hiện ra. ĐGM Jacques Perrier cai quản giáo phận Tarbes và Lộ Đức cho biết, để kỷ niệm 150 năm ngày Đức Mẹ hiện ra tại Lộ Đức, Tòa Thánh đã cho phép Giáo phận Tarbes và Lộ Đức tổ chức năm 2008 là Năm Thánh trong tinh thần truyền giáo.Trong Năm Thánh, tại Lộ Đức có khoảng 8 triệu người đến kính viếng Đức Mẹ.
Lúc 9 giờ sáng ngày 11-2-2008, hàng chục ngàn tín hữu hành hương đã tham dự thánh lễ do Đức Cha Jacques Perrier chủ sự tại Lễ Đài trước hang đá Đức Mẹ. Đây cũng là ngày thế giới các bệnh nhân lần thứ 16. Đồng tế với Đức Cha Perrier có gần 30 Giám Mục và 800 Linh Mục Pháp và nước ngoài.
Ban chiều cùng ngày có giờ Chầu Thánh Thể, và ban tối có cuộc rước nến kính Đức Mẹ bắt đầu lúc 9 giờ tối từ hang đá Đức Mẹ.
Tổng cộng từ ngày 9-11,có gần 70 ngàn tín hữu hành hương đến Lộ Đức, trong đó có hơn 30 đoàn tín hữu hành hương đến từ nhiều nước Âu Châu, và riêng từ Italia có 15 ngàn tín hữu, đặc biệt là một đoàn 2.500 tín hữu trong đó có nhiều bệnh nhân và người tàn tật dưới sự hướng dẫn của Đức ông Luigi Marrucci, Phó Tuyên úy toàn quốc của tổ chức Unitalsi, chuyên giúp đỡ các tín hữu bệnh nhân đi hành hương tại Lộ Đức và các đền thánh khác. 200 ký giả đã đăng ký để theo dõi và tường thuật các sinh hoạt tôn giáo.
Trong khi đó, tại Roma nhân lễ kỷ niệm này, lúc 11 giờ sáng ngày 11-2-2008, có cuộc rước trọng thể từ Lâu Đài Thiên Thần tiến qua đường Hòa Giải, và tới Quảng trường Thánh Phêrô. Hòm đựng hài cốt xương sườn của thánh nữ Bernadette Soubirous cũng được rước đi trong đoàn. Tại đây vào lúc 12 giờ, ĐHY Angelo Comastri, Giám quản Đền thờ Thánh Phêrô đã chủ sự buổi đọc kinh Truyền Tin với các tín hữu. ĐHY gợi lại thân thế khiêm hạ của thánh nữ Bernadette và mời gọi các tín hữu noi gương thánh nữ đến cùng Mẹ Maria. Sau đó, vào lúc 4 giờ, cũng tại Đền Thờ Thánh Phêrô, có buổi đọc kinh Mân Côi và thánh lễ do ĐHY Javier Lozano Barragán, người Mêhicô, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh mục vụ y tế, chủ sự, trước sự hiện diện của hài cốt Thánh Nữ Bernadette được đưa tới Roma từ ngày 8-2. Có 10 ngàn tín hữu ngồi chật thánh đường.Trong bài giảng thánh lễ, ĐHY Lozano Barragán nhắc đến sứ điệp của ĐTC nhân ngày Thế giới các bệnh nhân lần thứ 16, liên kết ngày này với hai biến cố: kỷ niệm 150 năm Đức Mẹ hiện ra tại Lộ Đức, và Đại Hội Thánh Thể Quốc Tế sẽ tiến hành tại Québec Canada vào tháng 6-2008. Có một mối liên hệ chặt chẽ giữa Mẹ Maria và Thánh Thể. Thân Thể Chúa Kitô mà Mẹ Maria trao tặng chúng ta cũng là Mình Thánh Chúa trong Thánh Thể. (x.Vietcatholic.org 11-2.2008).
Tại Lộ Đức có 3 Vương cung Thánh đường và 2 nguyện đường khá lớn. Lúc 5giờ chiều, chúng tôi dâng lễ ở Nhà thờ Mẹ Vô Nhiễm. Cha Thọ chánh xứ Tân Trang chủ tế và giảng lễ. Sau lễ mọi người ra Hang đá Massabielle lần chuỗi và cầu nguyện.Từng đoàn hành hương thinh lặng xếp hàng tiến vào hang đá. Mỗi người tay đặt lên hang đá, lòng thầm thì nguyện xin.Sau bàn thờ là mạch nước chảy không ngừng từ trong núi đá. Mạch suối này được dẫn xuôi theo Nhà thờ tới chân tháp với nhiều vòi nước, nhiều người đang tới lấy nước và uống nước. Lần lượt từng người dừng lại nơi tượng Đức Mẹ cầu nguyện sốt mến. Có nhiều người quỳ gối thành tâm sám hối. Đến 9giờ tối, chúng tôi hòa vào đoàn hành hương hơn 20 ngàn người đi kiệu tôn vinh Đức Mẹ. Đi đầu là thánh giá nến cao rồi đoàn xe của các bệnh nhân được các thiện nguyện viên đẩy giúp, kiệu Đức Mẹ. Theo sau là cộng đoàn đông đảo tay cầm cây nến cháy sáng lung linh, tay đếm chuỗi hạt Mân Côi, chậm rãi bước đi trong tiếng tung hô “Ave, Ave Maria”. Trời mưa lất phất, thời tiết lạnh 5 độ c. Giữa màn đêm, những ngọn nến vươn cao theo lời hát như một dòng sông ánh sáng, tuyệt đẹp và huyền diệu vô cùng. Nổi bật giữa muôn ngàn ngọn nến sáng, kiệu Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội uy linh tiến bước hòa trong lời suy niệm, lời kinh Kính Mừng và thánh ca ngợi khen tôn vinh Mẹ. Hơn 11g đêm nghi thức cung nghinh kết thúc bằng phép lành và lời kinh tạ ơn. Nhiều người trở lại Hang đá cầu nguyện bên Mẹ.
Hôm sau, chúng tôi dành cả ngày theo hướng dẫn viên đi thăm các địa danh liên quan đến cuộc đời thánh nữ Bernadette và Hang đá nơi Mẹ hiện ra, thăm các Vương cung Thánh đường và nguyện đường. Lộ Đức với tổng diện tích 51ha, bao gồm 22 địa điểm thờ phượng riêng biệt. Có sáu ngôn ngữ chính thức được sử dụng tại Đền thánh: Pháp, Anh, Ý, Tây Ban Nha, Hà Lan và Đức. Ở khu vực bể tắm dành cho bệnh nhân và khách hành hương, người ta phải chờ đợi cả mấy giờ đồng hồ để mong đến lượt. Trời quá lạnh nên chúng tôi không ai dám tắm. Lúc 5giờ chiều, chúng tôi dâng lễ ở Nhà thờ Đức Mẹ Mân Côi, cha Duy Phó xứ Bình Thái chủ tế và giảng lễ. Sau đó, chúng tôi qua bên kia sông lần chuỗi Mân Côi. Ban tối, tham dự cuộc rước kiệu cung nghinh Đức Mẹ với hàng chục ngàn người.
Lộ Đức là địa điểm gặp gỡ linh thiêng. Lộ Đức không có những công trình kiến trúc nguy nga, không có những danh lam thắng cảnh lý tưởng, nhưng đây thực sự là nơi linh thánh. Những ngày ở Lộ Đức đã cho tôi những cảm nhận thiêng liêng đó.
Theo truyền thuyết, tên Lourdes có từ thời vua Charlemage (742-814). Một người Sarrasin (người Hồi giáo thời cổ) tên Mirat đã chiếm miền đất này và cố thủ. Năm 778 quân đội của Charlemagne bao vây thành phố. Tình cờ có một con chim đại bàng ngậm một con cá hồi nước ngọt mang đến cho các người Hồi giáo, các người này liền mang con cá tới cho Charlemagne để làm cho ông ta tin rằng họ có đủ lương thực để cố thủ, chống lại cuộc vây hãm của nhà vua. Thấy khó chiếm được thành phố và theo gợi ý của Giám Mục Turpin của Giáo Phận Puy-en-Velay, nhà vua đề nghị cho phép Mirat giữ thành phố, nhưng ông này phải gia nhập đạo Công giáo. Mirat chấp nhận lời đề nghị, ông ta đem vũ khí tới bỏ dưới chân tượng Đức Trinh Nữ Đen ở Puy-en-Velay và lãnh nhận bí tích rửa tội với tên thánh là “Lorus”, sau này trở thành Lorda (tiếng Gascon miền nam nước Pháp) tức Lourdes (Lộ Đức).
Lourdes theo thổ ngữ Gascon địa phương miền nam Pháp là Lorda. Tiếng Việt phiên âm là Lộ Đức. Lourdes nằm trong vùng hành chính Midi-Pyrénées, thuộc tỉnh Hautes-Pyrénées, miền tây nam nước Pháp sát ranh giới với phía bắc Tây Ban Nha.
Lourdes nguyên là một thị trấn thương mại lớn với nét đặc trưng như một lâu đài nổi lên giữa thành phố trên một dốc đá đứng. Lourdes nằm ở chân dãy núi Pyrénées, thuộc khu vực kinh tuyến gốc (số 0), trong vùng Bigorre ở phía tây nam tỉnh Tarbes. Thành phố nằm trên khu vực dốc đá, ở độ cao trung bình 420m, có dòng sông Pau chảy qua từ đầu nguồn Gavarnie. Quanh thành phố có 3 ngọn núi cao khoảng 1.000 m là “Béout”, “Petit Jer” và “Grand Jer”. Có thể tới ngọn Grand Jer bằng xe lửa chạy trên đường sắt leo núi, còn ngọn Béout thì phải đi bằng cáp treo.
Do vị trí thuận lợi nằm giữa nhiều thung lũng, Lourdes đã có người cư ngụ từ rất sớm. Người ta đã khai quật được các dụng cụ, đồ trang sức, các mảnh sành và các mộ phần ở Espeluges và trong các hang động Arrouza thuộc thời đại đồ đá mới và thời đại đồ đồng. Công sự của lâu đài ở Lourdes dường như đã có từ thế kỷ I trước công nguyên. Vào thế kỷ XIX, các mảnh tường kiểu La mã đã được Công binh Pháp khám phá ở lâu đài này. Giữa những năm 1904 và 1907, khi phá Nhà thờ giáo xứ mang tên thánh Phêrô cũ, người ta cũng khám phá ra cấu trúc phần nền của một ngôi đền dâng cúng cho Thủy thần (Tutelles) với các mảnh sành và 3 bàn thờ dưới nền vòm cung sau cung thánh của Nhà thờ. Vào thế kỷ V, một ngôi Nhà thờ Công giáo đã thay thế ngôi đền này bị hỏa hoạn thiêu rụi. Người ta đã tìm thấy bằng chứng là các đồ vật của ngôi đền đã bị vôi hóa.
Thời Trung cổ, ở Lourdes có lâu đài là trụ sở của bá tước Bigorre. Cùng với cuộc chiến chống lại bè rối Albigeois (1208-1249), Lourdes được coi là điểm then chốt của tỉnh, bị nhiều phe tranh giành. Nó rơi vào tay Bá tước Champagne, sau này là Vua Navarre (khoảng đầu thế kỷ 13). Sau đó vào tay vua Pháp Philippe IV (Philippe le Bel). Rồi sau năm 1360 lại rơi vào tay người Anh trong cuộc Chiến tranh 100 năm cho tới đầu thế kỷ XV. Trong Chiến tranh 100 năm, Pierre Arnaud de Béarn giữ lâu đài cùng với toàn vùng Bigorre và Lavedan cho vua Anh. Sau năm 1374, người em là Jean de Béarn lên thay thế, nhưng lúc ấy lãnh thổ bị thu hẹp lại trong vùng núi mà thôi. Tới tháng 10-1407, lâu đài Lourdes rơi vào tay vua Pháp. Thời Trung cổ, thành phố mở về phía tây của lâu đài và được xây tường bao quanh (nay chỉ còn lại tháp Garnavie). Vào thế kỷ XIII, Lourdes có khoảng 150 hộ gia đình và sang đầu thế kỷ XV có 243 hộ gia đình.
Thế kỷ XVI và XVII, Lourdes trải qua nhiều cuộc khủng hoảng. Nhà thờ giáo xứ và Tu viện Saint-Pé-de-Bigorre gần đó bị phá hủy trong cuộc Chiến tranh tôn giáo giữa Công giáo và Tin Lành.
Tới thế kỷ XVIII, mặc dù có nạn đói và các trận dịch xảy ra, nhưng dân số lại cứ gia tăng. Năm 1696 có 2.315 dân. Từ năm 1730 – 1772, thêm 1.189 dân. Năm 1755, dân số gồm khoảng 40% là nông dân, 40% là thợ thủ công (chủ yếu ngành dệt), 8,5% là thợ làm đá và khoảng 13% làm dịch vụ (buôn bán vv…). Tuy nhiên tới đầu cuộc Cách mạng Pháp (1789), dân số lại giảm xuống chỉ còn khoảng 2.300 người.
Nửa đầu thế kỷ XIX, Lourdes là thị trấn nông nghiệp, khiêm tốn, với khoảng 4.000 dân, phần lớn dân chúng nuôi heo. Cuộc sống ở đây êm đềm buồn tẻ.
3. Từ khi Đức Mẹ hiện ra, Lộ Đức là địa chỉ linh thánh.
Năm 1858, sau khi Đức Mẹ hiện ra với một thiếu nữ nhà quê tên là Bernadette Soubirous trong hang đá nhỏ tên là Massabielle bên bờ sông Pau chảy qua thành phố, Lộ Đức trở thành trung tâm hành hương kính Đức Mẹ nổi tiếng trên thế giới. Hàng năm có khoảng hơn 6 triệu khách hành hương tới Lộ Đức, trong đó có khoảng 60.000 bệnh nhân và người tàn tật đến cầu nguyện, xin ơn phép lạ chữa bệnh.
Ngày 11.2.1858, một cô gái 14 tuổi tên là Bernadette Soubrirous loan tin rằng cô đã gặp một phụ nữ lạ, tại hang đá nhỏ Massabielle bên bờ sông Pau, phía tây thành phố. Bà này xưng mình là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội. Sau đó, Bà còn hiện ra với cô 17 lần nữa. Dân chúng trong thành phố và các vùng phụ cận đều tuôn đến hang đá cầu nguyện. Chính quyền phải tạm cấm bằng cách đặt hàng rào gỗ chắn lối vào hang. Nhưng đầu tháng 10-1858, họ phải gỡ bỏ hàng rào chắn vì áp lực của dân chúng và sự can thiệp của hoàng hậu Eugénie de Montijo, vợ của hoàng đế Napoléon III, một người Công giáo nhiệt thành.
Năm 1862, sau những cuộc điều tra theo Giáo luật về sự kiện lạ lùng đó, Đức Cha Laurence, Giám Mục Giáo Phận Tarbes nhìn nhận việc Đức Mẹ hiện ra với Bernadette. Cùng năm đó, Giáo hội bắt đầu xây ngôi Thánh đường mới – Vương cung Thánh đường Đức Mẹ Mân Côi Ngôi thay thế cho ngôi Nhà thờ đầu tiên và xây tầng trên là Vương cung Thánh đường Đức Mẹ Vô Nhiễm. Ngôi Thánh đường thứ ba mang tên Vương cung Thánh đường Thánh Piô X được xây dưới lòng đất (thấp hơn mức sông Pau), toàn bằng bêtông cốt thép, dài 200m, rộng 80m, ở giữa cao 10m, chứa được trên 25.000 người, do kiến trúc sư Pierre Vago thiết kế và kỹ sư Eugène Freyssinet thực hiện, đã được khánh thành ngày 25-3-1958.
Trong suốt triều đại Giáo hoàng của Đức Piô XI đã có các cuộc hiện ra của Đức Mẹ Beauraing và Đức Mẹ Banneux (ở Bỉ). Năm 1937, Đức Giáo Hoàng Piô XI đã đề cử Hồng y Eugenio Pacelli (sau này là Giáo hoàng Piô XII) làm Đặc sứ đến hành hương và kính viếng Lộ Đức. Đức Piô XI đã tích cực đẩy mạnh việc tôn kính Đức Mẹ Lộ Đức khi ngài phong Chân phước cho Bernadette Soubirous ngày 06 tháng 06 năm 1925. Sau đó ngài phong Thánh Bernadette vào ngày lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội 08 tháng 12 năm 1933.
Chính quyền địa phương mở rộng các đường phố và mở một đại lộ tới thẳng hang đá (từ 1879 – 1881). Từ đó các khách sạn và các cửa tiệm mọc lên như nấm để đón tiếp khách hành hương trên toàn thế giới.
4. Lịch sử và sứ điệp Đức Mẹ nhắn gửi qua Thánh nữ Bernadette.
Khi bước vào Vương Cung Thánh Đường Vô Nhiễm Nguyên Tội, tôi thấy bên phải, có phiến đá cẩm thạch ghi lời tuyên bố long trọng của Đức Giám Mục Laurence về những lần hiện ra của Đức Mẹ: “Chúng tôi tuyên bố rằng Đức Vô Nhiễm Nguyên Tội Maria, Mẹ Thiên Chúa, đã thực sự hiện ra với Bernadette Soubirous, ngày 11 tháng 02 năm 1858 và những ngày kế tiếp, tất cả là 18 lần, trong hang động Massabielle, gần thành Lộ Đức; rằng sự hiện ra này mang tất cả những tính cách của sự thật, và các giáo hữu đều đã tin là chắc chắn. Chúng tôi xin dâng cách khiêm nhượng sự phán đoán của chúng tôi cho Sự Phán Đóan của Đức Giáo Hoàng, Vị được giao trọng trách guồng lái Giáo Hội hoàn vũ “.
Đức Mẹ đã hiện ra 18 lần tại Hang đá Lộ Đức, từ ngày 11 tháng 02 đến ngày 16 tháng 07 năm 1858.
Ngày 28 tháng 07 năm 1858, Đức Giám Mục địa phận Lộ Đức đã thiết lập Ủy Ban Điều Tra về những lần Đức Trinh Nữ Maria hiện ra tại hang đá Massabielle. Công việc điều tra kéo dài trong 4 năm.
Trang web: lourdes-france.com, cho biết công việc nghiên cứu điều tra tỉ mỉ và sự phân định sáng suốt, trong lời kinh nguyện. Sau 4 năm, ngày 18 tháng 01 năm 1862, Đức Giám Mục, nhân danh Giáo Hội, nhìn nhận những lần hiện ra là đích thực. Giáo Hội nhìn nhận chính thức những lần Đức Mẹ hiện ra tại Lộ Đức, dựa trên chứng từ xác quyết của cô Bernadette Soubirous.
Cho đến ngày hôm nay, đã có 68 phép lạ được Bản quyền Giáo Hội công nhận. Phép lạ gần nhất được Đức Thánh cha Biển Đức XVI công nhận năm 2011.
Đức Thánh Cha Lêô XIII chấp thuận mừng lễ Đức Mẹ Lộ Đức vào ngày 11 tháng 2, để ghi nhớ 18 lần mẹ đã hiện ra với Bernadetta, kể từ ngày 11 tháng 2 tới ngày 16 tháng 7 năm 1858. Năm 1907, Đức Thánh Cha Piô X cho phép toàn thể Giáo hội mừng lễ này vào ngày 11.2 hàng năm.
Bernadette là một cô bé 14 tuổi, không biết đọc, không biết viết, con một gia đình nghèo ở Lộ Đức. Gia đình cô tạm trú tại một nơi trước kia dùng làm nhà giam.Nơi tồi tàn này, cả gia đình gồm ông bà thân sinh và bốn chị em Bernadette làm nơi nương thân. Đức Mẹ muốn chọn một cô bé nơi nghèo hèn để làm sứ giả của Mẹ. Đến thăm căn nhà Bernadetta sinh sống, tôi thấy đây là gia đình quá nghèo.
Theo lời kể của Bernadette. Hôm đó là ngày thứ năm, 11-02-1858, được nghỉ học, Bernadette xin phép mẹ đi nhặt củi. Bình thường theo dọc bờ sông Gave, có rất nhiều cành cây khô. Nhưng suốt buổi sáng đó, dường như chị em của Bernadette không nhặt được bao nhiêu. Bernadette mới tiến đến một hang động gần đó mà dân làng quen gọi là Massabielle. Cô đang loay hoay nhặt củi, từ trong hang đá, một thiếu nữ diễm lệ xuất hiện và đứng trên một tảng đá, ánh sáng bao trùm cả hang Massabielle. Theo lời mô tả của cô, thì người thiếu nữ chỉ trạc độ 16, 17 tuổi. Bernadette tưởng mình như đang mơ. Cô bước thêm bước nữa. Người thiếu nữ diễm lệ chỉ mỉm cười. Trong cơn xúc động, Bernadette lấy tràng chuỗi từ trong túi áo ra và bắt đầu đọc kinh Kính Mừng. Khi Bernadette vừa lần xong chuỗi mân côi, người thiếu nữ làm hiệu cho cô tiến lại gần hơn. Bernadette say sưa ngắm nhìn và tiếp tục đọc kinh cho đến khi ánh sáng bao trùm người thiếu nữ nhạt dần và tắt hẳn.
Cô về nhà kể lại biến cố ấy, nhưng chẳng ai tin cô. Chính cha mẹ cô cũng không muốn cho cô trở lại hang đá nữa. Nhưng như có một sức hấp dẫn lạ kỳ nào đó khiến cô vẫn trở lại hang đá ấy.
Sau lần này, cô còn được trông thấy “người thiếu nữ diễm lệ” hiện ra 17 lần nữa.
Khi hiện ra lần thứ ba, ngày 18.02.1958, người thiếu nữ ấy mới bắt đầu nói với cô: “Con có vui lòng đến đây liên tiếp 15 ngày nữa không? Ta không hứa sẽ làm cho con được sung sướng ở đời này, nhưng là ở đời sau.”.
Trong 15 ngày tiếp đó, người thiếu nữ đã nhắn nhủ và truyền cho Bernadette nhiều điều. Cô kể : “Bà dặn tôi nhiều lần rằng: Hãy sám hối, hãy nói với các linh mục xây một nhà nguyện ở đây, hãy đến uống và rửa ở suối này, phải cầu nguyện cho những người tội lỗi được ơn hối cải. Trong vòng 15 ngày ấy, Bà còn nói với tôi 3 điều và dặn tôi không được nói với ai. Tôi vẫn trung thành giữ kín. Sau ngày thứ 15, tôi hỏi Bà 3 lần liên tiếp: Bà là ai? Nhưng Bà chỉ mỉm cười. Tôi đánh bạo hỏi thêm lần thứ tư. Lúc ấy, Bà mới buông tay xuống, ngước mắt nhìn lên trời rồi vừa nói vừa chắp tay trước ngực: ‘QUE SOY ERA IMMACULADA COUNCEPTIOU'”. Đó là thổ âm của vùng Lộ Đức lúc bấy giờ, được dịch ra tiếng Pháp là: ‘Je suis l’Immaculée Conception’, và dịch sang tiếng Việt Nam là: ‘Ta là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội’.
Các bậc khôn ngoan chống đối, dân chúng xúc động, cảnh sát thẩm vấn Bernadette nhiều lần. Cô bình thản trả lời và không hề nao núng trước những lời đe dọa. May mắn là cô không bị vướng mắc vào những tiểu xảo của người thẩm vấn. Các nữ tu dạy học cũng tỏ ra bất bình, còn Bernadette vẫn luôn giữ được thái đô khiêm tốn lịch sự.
Ngày 25-2-1858, một đoàn người cảm kích theo cô sau khi cầu nguyện, Bernadette đứng dậy, ngập ngừng tiến tới gần hang đá rồi quì xuống. Theo lệnh của “người thiếu nữ diễm lệ”, cô cúi xuống lấy tay cào đất. Một dòng nước vọt lên. Dòng nước đó đến nay cứ chảy mãi, cứ 24 tiếng đồng hồ là có khoảng 120.000 lít nước chảy ra.
Ông biện lý cho gọi Bernadette tới. Ông chế giễu, tranh luận và đe dọa cô nữa. Cuối cùng ông kết luận: – Cô hứa với tôi là sẽ không tới hang đá nữa chứ ?
Nhưng Bernadette bình tĩnh trả lời cách rõ ràng: – Thưa ông, cháu không hứa như vậy.
Cha sở tỏ ra nghi ngại, ngài cấm các linh mục không được tới hang. Khi Bernadette tới gặp ngài và thuật lại “”người thiếu nữ diễm lệ” nói : Ta muốn mọi người tổ chức rước kiệu tại đây”.
Cha sở liền quở trách và gằn từng tiếng : – Con hãy nói với bà ấy rằng, đối với cha sở Lộ Đức, phải nói cho rõ rệt. Bà muốn những buổi rước kiệu và một nhà nguyện à ? Trước hết Bà phải cho biết Bà tên là gì và làm một phép lạ đã chứ.
Dòng nước vẫn chảy thành suối. Dân chúng vẫn lũ lượt kéo nhau tới, những kẻ hoài nghi phải chùn bước.
Đã có những phép lạ nhãn tiền :
– Một người thợ đẽo đá mù lòa đã thấy được ánh sáng.
– Một phụ nữ bại tay sáu năm nay bình phục.
– Một em bé hai tuổi bệnh hoạn đang hấp hối trước những cặp mắt thất vọng của cha mẹ. Họ nghèo lắm, bà hàng xóm đã dọn sẵn cho một một cái quách. Người cha thở dài : – Nó chết rồi.
Người mẹ chỗi dậy. Không nói một lời nào, bà ôm đứa trẻ chạy thẳng ra hang đá, dìm nó vào trong dòng nước giá lạnh. Dân chúng cho rằng bà khổ quá hóa điên. Sau khi tắm cho bé khoảng 15 phút, bà ẵm con về nhà. Sáng hôm sau, bé hết bệnh. Ba bác sĩ đã chứng thực chuyện lạ này.
Báo chí công kích dữ dội và cho rằng đó chỉ là ảo tưởng. Bernadette vẫn giản dị vui tươi tự nhiên. Hàng ngày cô trở lại hang đá.
Ngày 25-3, cô quì cầu nguyện và khuôn mặt bỗng rỡ nên rạng rỡ. Rồi cô quay lại nói với vài người có mặt : – Bà nói : Ta là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội.
Vài phút sau, lời Đức Trinh Nữ được truyền từ miệng người này sang người khác. Đám đông cất cao lời cầu khẩn: – Lạy Đức Mẹ Maria chẳng hề mắc tội tổ tông, xin cầu cho chúng con là kẻ chạy đến cùng Đức Mẹ.
Ngày 8-12-1854, Ðức Giáo Hoàng Piô IX tuyên bố tín điều Vô Nhiễm Nguyên Tội trong Hiến Chế Ineffabilis Deus. Hơn ba năm sau, trong lần hiện ra ngày 25-3-1858, Đức Mẹ tự xưng là: “Ðấng Vô Nhiễm Nguyên Tội.”.
Vào năm 1866, Bernadette được gửi vào dòng Nữ Tu Ðức Bà ở Nevers. Ở đây, sơ trở nên một phần tử của cộng đoàn, và bị sơ giám đốc đệ tử đối xử rất tệ hại. Sự bất nhẫn ấy chỉ chấm dứt khi họ khám phá rằng sơ Bernadette đang chịu đau khổ vì một căn bệnh bất trị. Sơ từ trần ở Nevers vào ngày 15-4-1879, khi mới 35 tuổi. Sơ Bernadette được phong chân phước năm 1925, và được Ðức Giáo Hoàng Piô XI phong thánh năm 1933. Lễ kính thánh nữ vào ngày 16-4 hàng năm.
Lộ Ðức đã trở nên trung tâm hành hương và chữa lành, nhất là đức tin. Ðối với những người có đức tin thì không có gì ngạc nhiên. Ðó là sứ vụ chữa lành của Chúa Giêsu được tiếp tục thể hiện qua sự can thiệp của Mẹ Maria.
Nhiều người đến Lộ Ðức và trở về với một đức tin được đổi mới, sẵn sàng phục vụ Thiên Chúa trong các nhu cầu của tha nhân. Tuy nhiên vẫn còn nhiều người nghi ngờ việc hiện ra ở Lộ Ðức. Ðể nói với họ, có lẽ tốt hơn là dùng những lời mở đầu của cuốn phim “Song of Bernadette”: “Với những ai tin vào Chúa thì không cần giải thích. Với những người không tin, thì chẳng sự giải thích nào đầy đủ.”.
Sứ điệp Đức Mẹ trao cho Bernadette có thể tóm lược trong ba lời mời gọi sau đây:
– Mời gọi cầu nguyện: Khi hiện ra lần thứ nhất, Mẹ đã dạy Bernadette làm dấu Thánh Giá và lần hạt cách sốt sắng. Mỗi lần hiện ra Mẹ đều làm như vậy. Mẹ còn dạy riêng cho Bernadette một kinh nguyện, rồi cuối cùng mới trao cho cô sứ điệp cầu nguyện: Con hãy cầu nguyện, hãy cầu nguyện cho kẻ có tội được ơn trở lại.
– Mời gọi sám hối: Đức Trinh Nữ lập lại với Bernadette ba lần: ‘Hãy sám hối, sám hối, sám hối’. Ngày 25-2-1858, Mẹ nói với Bernadette: ‘Con hãy đến uống và rửa ở suối này’. Mẹ chỉ cho cô tìm ra một giòng suối. Suối nước này ban đầu rất đục, sau đó bùn lắng xuống rồi trở thành suối nước trong lành. Đó là dấu hiệu của sự sám hối. Nó tượng trưng cho sự lắng đọng trong tâm hồn tất cả những gì là vẩn đục hầu nên thanh sạch hơn.
– Mời gọi rước kiệu và xây nhà nguyện:”Con hãy nói với các linh mục xây nhà nguyện ở đây. Mẹ muốn người ta đến đây rước kiệu”. Nhà nguyện là nơi dân Chúa tụ họp để nghe lời Chúa và cử hành nhiệm tích Thánh Thể. Để đáp lại nguyện vọng của Đức Maria mà 3 đại Giáo đường và 2 Nhà thờ khá lớn lần lượt được xây dựng ở đây.”Người ta sẽ xây nhà nguyện cho con, và xây rất lớn” , cha sở Lộ Đức Peyramale đã nói với Bernadette như thế khi cô đến trình bày về lời yêu cầu của Đức Mẹ, hẳn cha đã không ngờ rằng mình nói rất đúng.Những Thánh đường này hằng ngày quy tụ từng đoàn người hành hương đến viếng thăm, chầu Thánh Thể và rước kiệu. Chính tại nơi đây, Thánh lễ cũng như các buổi rước kiệu Thánh Thể luôn được cử hành rất long trọng. Lộ Đức xứng với danh hiệu “Thành phố của nhiệm tích Thánh Thể”.
Hai buổi chiều, tôi dành thời giờ ngồi bên dòng sông Pau, đối diện với Hang Đá, ngắm nhìn Vương Cung Thánh Đường uy nghi xây vách đá, nơi Đức Mẹ hiện ra, nhìn dòng người không ngớt cầu nguyện dưới chân Mẹ. Tôi hiểu tại sao Giáo hội, trong dọc dài thời gian hơn hai ngàn năm qua vẫn luôn vững bền và phát triển cho dù trải biết bao thăng trầm dâu bể của lịch sử nhân loại. Nhờ Mẹ Maria luôn chở che Giáo hội như Mẹ đã bao bọc nâng đỡ các Tông Đồ sau Lễ Ngũ Tuần. Mẹ là dòng sông tưới mát cho nhân loại đang trên hành trình tìm về nguồn hạnh phúc bên Chúa.
Lộ Đức là địa chỉ của tình thương, là điểm hẹn của bình an nội tâm. Có hai ngày được diễm phúc ở bên Đức Mẹ từ ái, kín múc nhiều ơn lành, chúng tôi cám ơn Mẹ và tạm biệt linh địa để lên đường đi Tây Ban Nha kính viếng Đền thánh Loyola ở Burgos, nơi Thánh Ignatiô sáng lập Dòng Tên được ơn hoán cải.