Người Việt Nam có một đặc điểm là rất ư chuộng các mặt hàng ngoại, do đó hàng Thái Lan khi được nhập về Việt Nam thường bán rất chạy. Vậy nên, nếu là một người đma mme kinh doanh thì các mặt hàng Thái Lan là một điều bạn nên tham khảo.
Người Việt Nam có một đặc điểm là rất ư chuộng các mặt hàng ngoại, do đó hàng Thái Lan khi được nhập về Việt Nam thường bán rất chạy. Vậy nên, nếu là một người đma mme kinh doanh thì các mặt hàng Thái Lan là một điều bạn nên tham khảo.
Để mà nói những sản phẩm của Thái Lan được nhiều người Việt ưa chuộng nhất chắc chắn phải kể đến hàng tiêu dùng. Hàng tiêu dùng Thái Lan đa số đều có giá thành phù hợp với túi tiền chung của người Việt mà chất lượng lại tốt nhất nên lượng tiêu thụ đạt con số khổng lồ.
Một số mặt hàng tiêu dùng của Thái Lan được nhiều người Việt ưa chuộng hot nhất phải kể đến như:
- Nước giặt: Nước giặt Thái Lan khá phổ biến đối với người tiêu dùng Thái Lan với mỗi số cái tên nổi trội như: Nước giặt Nice & Queen, Dnee, Kleansy, Epo, Aro,… Nước giặt Thái được nhiều người Việt ưa chuộng bởi tính giữ hương lâu và thành phần rất dịu nhẹ, không gây kích ứng.
- Sữa tắm, dầu gội, dầu xả: Các thương hiệu dầu gội, dầu xả, sữa tắm của Thái Lan được ưa chuộng ở Việt Nam phải kể đến như: Oriental princess, Panpuri
Các mặt hàng gia dụng Thái Lan được ưa chuộng
Ngành hàng Thái Lan cũng là một trong những ngành hàng được nhiều người Việt săn đón. Đa số các mặt hàng quần áo, giày dép thời trang Thái Lan được nhập về Việt Nam có giá thành phải chăng, thiết kế đơn giản nhưng chất lượng cao nên được rất nhiều người ưa chuộng.
Không những thế một số thương hiệu thời trang lớn của Thái Lan cũng rất phổ biến, phải kể đến như: Jaspal, CPS Chaps, LYN, những mặt hàng của các hang thời trang lớn tuy có giá thành cao hơn mặt bằng chung nhưng chất lượng rất tốt cùng với những thiết kế đa dạng, độc đáo nên cũng được rất nhiều người ưa chuộng.
Dùng thử miễn phí phần mềm quản lý bán hàng Nhanh.vn - Quản lý chặt chẽ dòng tiền, đơn hàng, nhân viên chỉ với 8k/ngày
Các loại mỹ phẩm chính hãng Thái Lan được nhiều người Việt ưa chuộng không kém các loại mỹ phẩm đến từ Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ,… Đa số các loại mỹ phẩm Thái được sử dụng rộng rãi ở Việt Nam là các loại sữa rửa mặt, tẩy trang, tẩy da chết, các loại kem dưỡng, lăn ngăn mùi,… đến từ các thương hiệu mỹ phẩm Thái nổi tiếng như: Yanhee, Karmart, Oriental princess, Panpuri, Senspa,...
Mỹ phẩm Thái Lan rất đa dạng và được người Việt ưa chuộng
Đồ gia dụng Thái Lan thì không còn xa lạ với các bà mẹ nội trợ nữa rồi. Các loại sản phẩm như rổ, giá, dao, kéo, các loại đồ gia dụng phổ biến sử dụng trong gia đình đa số được các bà mẹ lựa chọn những sản phẩm đến từ Thái Lan vì chúng có chất lượng rất tốt, dùng được rất bền.
Một số đồ gia dụng Thái Lan phổ biến tại Việt Nam
Thái Lan nổi tiếng với các loại gia vị đặc trưng của họ phù hợp với khẩu vị của người Đông Nam Á, đặc biệt là các gia vị cay. Bạn có thể thấy rất nhiều cửa hàng hiện nay đang bán các loại gia vị, nước chấm của Thái Lan rất chạy.
Ngoài ra,Thái Lan còn nổi tiếng với các loại ngũ cốc, gạo vì khá là hợp với khẩu vị của người Việt Nam. Cũng không thể không kể đến các đồ ăn vặt với bao bì bắt mắt, hương vị độc đáo.
Hàng điện tử Thái Lan có chỗ đứng trong lòng người tiêu dùng Việt Nam từ lâu. Bất cứ sản phẩm điện tử nào có nguồn gốc xuất xứ từ Thái Lan đều được người tiêu dùng Việt Nam yên tâm lựa chọn vì uy tín.
- Bạn có thể chọn danh mục mặt hàng điện tử phù hợp để nhập khẩu về Việt Nam từ các loại máy móc, thiết bị âm thanh đến máy tính, linh kiện máy tính...
Đọc thêm: Những website bán hàng trực tuyến nào của Thái Lan đang được ưa chuộng nhất?
Khi đã biết được những mặt hàng Thái nào được nhiều người Việt ưa chuộng rồi thì bạn cần biết phải làm sao để nhập chúng về bán tại cửa hàng của mình.
Nếu muốn trực tiếp tìm hiểu thị trường, nắm bắt các mặt hàng tiêu dùng tại Thái Lan đang được ưa chuộng bạn có thể sang tận nơi để nhập hàng Thái Lan bán buôn.
Địa chỉ nhập hàng tiêu dùng Thái Lan giá sỉ rất đa dạng, có thể kể tên tới các khu chợ như: Khu chợ Pratunam, chợ cuối tuần Chatuchak, chợ đêm Suan Lum, chợ Sampeng…; các siêu thị lớn như: Lotus Texaco, Center, Robinson, Big C,… các trung tâm thương mại như: Central World, Bobae Tower, Platinum Fashion Mall, Siam Paragon, Pantip Plaza,…
Nếu biết tiếng Thái bạn có thể trực tiếp đặt hàng online trên các website bán hàng tại Thái Lan. Vừa có thể nhập hàng Thái lan giá rẻ vừa không cần tốn chi phí trung gian. Tuy nhiên với cách làm này thì bạn thường thì bạn sẽ phải liên hệ đặt hàng nhiều website khác nhau, sẽ mất rất nhiều thời gian và có nguy cơ nhầm lẫn hàng hóa.
Hiện tại, hầu hết các mặt hàng tiêu dùng Thái Lan đều có các công ty phân phối tại Việt Nam. Do đó, nếu không có nguồn hàng trực tiếp từ Thái Lan, bạn có thể tìm nhà cung cấp trong nước qua mạng internet, thông qua các siêu thị, facebook bán buôn, qua các triển lãm hàng tiêu dùng Thái Lan tại Việt Nam.
Thêm vào đó, bạn cũng có thể bắt mối tìm nguồn hàng từ các đại lý lớn kinh doanh hàng tiêu dùng Thái Lan tại các thành phố Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh.
Nhập hàng Thái Lan tại các cửa hàng lớn ở Việt Nam
Bạn cũng có thể cân nhắc nguồn hàng xách tay vận chuyển từ Thái Lan về Việt Nam. Nếu có người thân định cư ở Thái thì hãy tận dụng mối quan hệ đó nhờ họ mua hộ. Nếu không, bạn quyết định tìm kiếm và sử dụng những dịch vụ mua hộ hàng xách tay từ những tiếp viên hàng không, phi công. Ưu điểm của nguồn hàng này là bạn sẽ nhập được với giá gốc hoặc chỉ thêm phụ phí nhỏ.
Chúng tôi đã tổng hợp những kinh nghiệm mới nhất để chọn những sản phẩm Thái Lan phù hợp với cửa hàng của mình trong bài viết trên. Để được hỏi đáp tư vấn nhanh nhất, hãy liên hệ tổng đài 19002812 của Nhanh.vn nhé.
Kinh nghiệm tìm nguồn lấy hàng Thái Lan cho người mới bắt đầu
Làm sao để chuyển hàng từ Thái Lan về Việt Nam?
Chuyên cung cấp các dịch vụ về visa, hộ chiếu, xin gia hạn visa, xin cấp thẻ tạm trú, giấy phép lao động cho công dân Cộng hòa Síp (Cyprus) tại Việt Nam.
Bạn là công dân của Cộng Hòa Síp hoặc có bạn bè người thân là người Cyprus muốn nhập cảnh vào Việt Nam cần làm visa Việt Nam hay cần làm nhanh làm khẩn visa hãy liên hệ với chúng tôi để có dịch vụ tốt, chuyên nghiệp và nhanh chóng.
Các dịch vụ chúng tôi cung cấp cho công dân Cộng Hòa Síp bao gồm:
- Xin visa Việt Nam 3 tháng 1 lần, 6 tháng nhiều lần...
- Dịch vụ xét xuyệt và xin công văn nhập cảnh vào Việt Nam thời hạn 1 tháng đên 3 tháng nhận visa tại Sân bay hoặc Đại sứ quán.
- Dịch vụ chuyển đổi visa du lịch sang visa việc làm;
- Dịch vụ xin visa dài hạn cho người nước ngoài muốn làm việc dài hạn tại VN;
- Xin cấp giấy phép lao động tại Việt Nam;
- Xin và gia hạn visa thăm thân;
THÔNG TIN CHI TIẾT VỀ DỊCH VỤ XIN QUÝ KHÁCH LIÊN HỆ ĐỂ ĐƯỢC TƯ VẤN MIỄN PHÍ!
Người Thái với tên tự gọi là Tay/Tày/Thay/Thày (tiếng Thái: ꪼꪕ Tay, Thái Lan:ไท Thay) tùy thuộc vào cách phát âm của từng khu vực. Các nhóm, ngành lớn của người Thái tại Việt Nam bao gồm: Tay Đón (Thái Trắng), Tay Đăm (Thái Đen), Tay Đèng (Thái Đỏ) và Tay Dọ (Thái Yo) cùng một số khác nhỏ hơn. Họ đã có mặt ở miền Tây Bắc Việt Nam trên 1200 năm, là hậu duệ những người Thái đã di cư từ vùng đất thuộc tỉnh Vân Nam, Trung Quốc bây giờ.[1][2][3]
Người Thái thiểu số ở Việt Nam là 1 trong những dân tộc thuộc sắc tộc Thái và họ đều có nguồn gốc từ miền nam Trung Quốc di cư về phía nam (hay là khu vực Đông Nam Á). Dựa trên các chứng cứ về di truyền, Jerold A. Edmondson cho rằng tổ tiên của các cư dân nói ngôn ngữ Kra-Dai (Tai-Kadai) di cư từ Ấn Độ tới Myanmar, rồi sau đó tới Vân Nam (Trung Quốc) khoảng 20.000 - 30.000 năm trước.[4] Từ đó họ đến đông bắc Thái Lan và sau đó di cư dọc vùng duyên hải Hoa Nam lên phía bắc đến cửa sông Trường Giang, gần Thượng Hải khoảng 8-10.000 năm trước.[4]. Vào thời kỳ vương quốc Nam Chiếu và Đại Lý tồn tại từ TK 8 đến TK 13, cũng như sau đó, họ từ đó chiếm lĩnh Thái Lan và Lào.
Theo David Wyatt, trong cuốn "Thailand: A short history (Thái Lan: Lịch sử Tóm lược)", người Thái xuất xứ từ phía nam Trung Quốc, có cùng nguồn gốc với các nhóm dân ít người bây giờ như Choang, Tày, Nùng. Dưới sức ép của người Hán và người Việt ở phía bắc và phía đông, người Thái dần di cư về phía nam và tây nam. Người Thái di cư đến Việt Nam trong thời gian từ thế kỷ VII đến thế kỷ XIII[5]. Trung tâm của họ khi đó là Điện Biên Phủ (Mường Thanh). Từ đây, họ tỏa đi khắp nơi ở Đông Nam Á cùng 1 lúc bây giờ như Lào, Thái Lan, bang Shan ở Miến Điện và một số vùng ở đông bắc Ấn Độ cũng như nam Vân Nam[6].
Theo sử sách Việt Nam, vào thời Nhà Lý, man Ngưu Hống (được cho là một cộng đồng người Thái Đen, đây là âm Hán Việt, phiên âm cho từ ngù háu (tiếng Thái: ꪉꪴ ꪹꪬ꪿ꪱ) tức là rắn hổ mang) ở đạo Đà Giang, đã triều cống lần đầu tiên vào năm 1067. Trong thế kỷ XIII, người Ngưu Hống kết hợp với người Ai Lao chống lại Nhà Trần và bị đánh bại. Năm 1280, một thủ lĩnh tên Trịnh Giác Mật, được gọi là "chúa đạo Đà Giang" đầu hàng Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật nhà Trần, nhưng chưa rõ thành phần dân tộc của nhân vật này. Năm 1337 lãnh tụ Xa Phần bị giết chết sau một cuộc xung đột, xứ Ngưu Hống bị sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt và đổi tên thành Mường Lễ, hay Ninh Viễn (Lai Châu ngày nay) và giao cho họ Đèo cai quản. Năm 1431 lãnh tụ Đèo Cát Hãn, người Thái Trắng tại Mường Lễ (tức Mường Lay, nổi lên chống triều đình, chiếm hai lộ Quy Hóa (Lào Cai) và Gia Hưng (giữa sông Mã và sông Đà), tấn công Mang Mỗi (tức Mường Muổi, Sơn La), Đèo Mạnh Vương (con của Đèo Cát Hãn) làm tri châu. Năm 1466, lãnh thổ vùng tây bắc Đại Việt, gồm những vùng đất của người Thái được tổ chức lại thành thừa tuyên Hưng Hóa, gồm 3 phủ: An Tây (tức Phục Lễ), Gia Hưng và Qui Hóa, 4 huyện và 17 châu.
Những lãnh tụ Thái được gọi là "phụ đạo" (tiếng Thái: ꪕ꫁ꪱꪫ tạo) , được phép cai quản một số lãnh địa và trở thành giai cấp quý tộc của vùng đó, như dòng họ Đèo cai quản các châu Lai, Chiêu Tấn, Tuy Phụ, Hoàng Nham; dòng họ Cầm các châu Phù Hoa, Mai Sơn, Sơn La, Tuần Giáo, Luân, Ninh Biên; dòng họ Xa cai quản châu Mộc; dòng họ Hà cai quản châu Mai, dòng họ Bạc ở châu Thuận; họ Hoàng ở châu Việt...
Năm 1841, trước sự đe dọa của người Xiêm La, triều đình Nhà Nguyễn kết hợp ba châu Ninh Biên, Tuần Giáo và Lai Châu ở tả ngạn sông Mekong thành phủ Điện Biên. Năm 1880, phó lãnh sự Pháp là Auguste Pavie nhân danh triều đình Việt Nam phong cho Đèo Văn Trị chức tri phủ cha truyền con nối tại Điện Biên; sau khi giúp người Pháp xác định khu vực biên giới giữa Việt Nam với Trung Quốc và Lào, Đèo Văn Trị được cử làm quan của đạo Lai Châu, cai quản một lãnh thổ rộng lớn từ Điện Biên Phủ đến Phong Thổ, còn gọi là xứ Thái. Tháng 3, 1948 lãnh thổ này được Pháp tổ chức lại thành Liên bang Thái tự trị, qui tụ tất cả các sắc tộc nói tiếng Thái chống lại Việt Minh.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, để lấy lòng các sắc tộc thiểu số miền Bắc, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập Khu tự trị Thái Mèo ngày 29 tháng 4 năm 1955, Khu tự trị Tày Nùng và vùng tự trị Lào Hạ Yên, nhưng tất cả các khu này đều bị giải tán năm 1975
Tại Việt Nam, theo Tổng điều tra dân số năm 1999, người Thái có số dân là 1.328.725 người[7], chiếm 1,74% dân số cả nước, cư trú tập trung tại các tỉnh Lai Châu, Điện Biên, Lào Cai, Yên Bái, Sơn La, Hòa Bình, Thanh Hóa, Nghệ An (số lượng người Thái tại 8 tỉnh này chiếm 97,6% tổng số người Thái ở Việt Nam)và một số ở Tỉnh Lâm Đồng và Đắk Lắk. Trong đó tại Sơn La có 482.485 người (54,8 % dân số), Nghệ An có 269.491 người (9,4 % dân số), Thanh Hóa có 210.908 người (6,1 % dân số), Lai Châu cũ (nay là Lai Châu và Điện Biên) có 206.001 người (35,1 % dân số).
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, người Thái ở Việt Nam có dân số 1.820.950 người, là dân tộc có dân số đứng thứ 3 tại Việt Nam, có mặt trên tất cả 63 tỉnh, thành phố. Người Thái cư trú tập trung tại các tỉnh:
Thái Đen (tiếng Thái:ไทดำ; chữ Thái Đen:ꪼꪕꪒꪾ, Phát âm tiếng Thái: [Thay Đằm]) hay Thái quần đen ( tiếng Thái: ไทยทรงดำ; Phát âm tiếng Thái: [Thay xoong-đằm]) cư trú ở khu vực tỉnh Sơn La và Điện Biên (Mường La, Mường Thèng), một số tập trung ở miền Tây Thanh Hóa (Mường Khoòng). Các nhóm Tay Thanh (Man Thanh), Tay Mười, Tay Khăng ở miền Tây Thanh Hóa, Nghệ An cũng mới từ mạn Tây Bắc chuyển xuống cách đây vài ba trăm năm và bị ảnh hưởng bởi văn hóa và nhân chủng của cư dân địa phương và Lào.
Nhóm Tay Thanh từ Mường Thanh (Điện Biên) đi qua Lào vào Thanh Hóa và tới Nghệ An định cư cách đây hai, ba trăm năm, nhóm này gần với nhóm Thái Yên Châu (Sơn La) và chịu ảnh hưởng văn hóa Lào. Dân số của nhóm Thái Đen tại Việt Nam năm 2002 ước tính khoảng 699.000 người trong tổng số 763.950 người Thái Đen trên toàn thế giới[9]. Ngoài ra còn có khoảng 50.000 người Thái Đen hay Tay Mười sinh sống tại tỉnh Khăm Muộn, Lào (số liệu 1995); 10.000 người Thái Đen (một phần của dân tộc Thái theo phân loại của CHND Trung Hoa) sinh sống tại tỉnh Vân Nam, Trung Quốc (số liệu 1995) và 700 người Thái Đen sinh sống tại tỉnh Loei, Thái Lan (số liệu 2004, nhóm này đến Thái Lan vào năm 1885)[9].Số dân Thái Đen cũng sống ở các tỉnh khác như Nakhon Pathom, Ratchaburi, Suphan buri, Phitsanulok, Chumphon và Surat Thani.
Nhóm Thái Trắng (Tay Đón/Tay Khao, tiếng Thái: ꪼꪕ ꪒ꪿ꪮꪙ / ꪼꪕ ꪄꪱꪫ) cư trú chủ yếu ở tỉnh Lai Châu, Điện Biên và một số huyện tỉnh Sơn La (Quỳnh Nhai, Bắc Yên, Phù Yên). Ở Đà Bắc thuộc tỉnh Hòa Bình, có nhóm tự nhận là Tày Khao, từng được gọi là Thổ Đà Bắc. Ở xã Dương Quỳ, huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai, có một số địa bàn Thái Trắng chịu ảnh hưởng đậm của văn hóa Tày. Ở Sapa, Bắc Hà, nhiều nhóm Thái Trắng đã Tày hóa.
Người Thái Trắng đã có mặt dọc hữu ngạn sông Hồng và tỉnh Lai Châu, Điện Biên từ thế kỷ XIII và làm chủ Mường Lay (địa bàn chính là huyện Mường Chà ngày nay) thế kỷ XIV, một bộ phận di cư xuống Đà Bắc và Thanh Hóa thế kỷ XV. Có thuyết cho rằng họ là con cháu người Thái Lặc ở Trung Quốc. Dân số của nhóm Thái Trắng tại Việt Nam năm 2002 ước tính khoảng 280.000 người trong tổng số 490.000 người Thái Trắng trên toàn thế giới[10]. Ngoài ra còn có khoảng 200.000 người Thái Trắng sinh sống tại Lào (thống kê năm 1995); 10.000 người Thái Trắng (một phần của dân tộc Thái theo phân loại của CHND Trung Hoa) sinh sống tại tỉnh Vân Nam, Trung Quốc (số liệu 1995)[10].
Ở Mường Tấc, nay thuộc huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La, một nhánh của người Thái Trắng nói tiếng riêng gọi là tiếng Tày Tấc.
Nhóm Thái Đỏ (?) (ꪼꪕ ꪵꪒꪉ -Tay Đèng), gồm nhiều nhóm khác nhau cư trú chủ yếu ở một số huyện như Mộc Châu (Sơn La), Mai Châu (Hòa Bình) và các huyện miền núi như Bá Thước (Thanh Hóa) và Quỳ Châu, Quỳ Hợp, Con Cuông, Tương Dương - điều này không chắc chắn (Nghệ An). Dân số của nhóm Thái Đỏ tại Việt Nam năm 2002 ước tính khoảng 140.000 người trong tổng số 165.000 người Thái Đỏ trên toàn thế giới[11]. Ngoài ra còn có khoảng 25.000 người Thái Đỏ sinh sống tại tỉnh Sầm Nưa, Lào (số liệu 1991)[11]. Tuy nhiên, tên gọi này hiện đang có nhiều tranh cãi.
Một số nhóm có dân số ít hoặc chưa được phân định rõ ràng như Tay Mười (ꪼꪕ ꪹꪢ꫁ꪥ), Tay Khăng sống xen kẽ với nhóm Tay Thanh và Tay Mường ở Nghệ An).
Người Thái Mường Vạt hay còn gọi là Thày Mường Vạt sống tại huyện Yên Châu, Sơn La. Họ nói tiếng Thái Mường Vạt. Họ tự nhận mình là người Thái Đen (Tay Đăm).
Người Thái Dọ hay còn gọi là Tay Dọ, Tay Mương, Tay Hàng Tổng sống tập trung tại các huyện miền tây Nghệ An và huyện Thường Xuân, Như Xuân của Thanh Hóa. Họ nói Tiếng Tay Dọ, có chữ viết riêng là chữ Lai Tay và Lai Pao, hiện nay vẫn đang được sử dụng.
Người Thái Thanh hay còn gọi là Tày Theng, Tày Nhài. Họ sinh sống ở Nghệ An, Thanh Hóa và nói tiếng Tay Nhài.
Người Thái Lự là một nhánh của dân tộc Thái, sinh sống tại hai huyện Phong Thổ và Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu. Ở Việt Nam họ được xếp vào dân tộc riêng là người Lự.
Người Tày Đà Bắc hay còn gọi là Thổ Đà Bắc gồm 20,000 người sống tại Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình. Tuy gọi là người Tày nhưng họ theo văn hóa của Người Thái Tây Bắc và nói tiếng Phu Thái. Theo số liệu thống kê năm 2009, huyện Đà Bắc có 48.775 người, trong đó dân tộc Tày là 19.805 người, chiếm 40,6% dân số toàn huyện và chiếm 99,44% dân tộc Tày của toàn tỉnh.[12] Tại huyện Đà Bắc họ cư trú tập trung ở một số xã như Tân Minh, Tân Pheo, Trung Thành, Đoàn Kết, Đồng Ruộng, Đồng Chum, Mường Chiềng và Nánh Nghê.
Người Tày Sapa và người Pa Dí sinh sống tại Sa Pa và Mường Khương tỉnh Lào Cai. Họ được xếp vào dân tộc Tày, tuy nhiên tiếng nói của họ thuộc nhóm Thái Tây Nam của người Thái.
Ngoài ra còn có chừng 20.000 người Thái gốc Việt Nam sinh sống tại nước ngoài, chủ yếu là Pháp và Hoa Kỳ.
Người Thái có ngôn ngữ và văn tự riêng. Các nhà dân tộc học hiện nay đã xếp tộc người này vào Nhóm nói tiếng Thái - ngữ hệ (họ ngôn ngữ) Kra-Dai (hay còn gọi là Tai-Kadai) . Do có chung một cội nguồn, các ngôn ngữ Thái có tỷ lệ từ vựng chung cao.
Các ngôn ngữ Thái này chủ yếu là ngôn ngữ đơn âm tiết, có thanh điệu. Cú pháp chủ yếu là SVO (chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ). Trừ những câu mệnh lệnh thức, còn ít có trường hợp đảo ngược thứ tự này. Chữ Thái ở Việt Nam được chia thành năm dựa theo các vùng:
1. Thái Trắng miền cực bắc Tây Bắc.
2. Thái Đen vùng giữa miền Tây Bắc, thường gọi là tiếng Thái chín châu (Kwam Thai kau chaw muang).
3. Thái Đen ở huyện Yên Châu (Sơn La), thường gọi là Thái Mường Vạt.
4. Thái Trắng ở huyện Phù Yên, Mộc Châu (Sơn La) hợp cùng Thái Đen, thường gọi là Tày Thanh (Man Thanh, Tay Nhài).
5. Nhóm Thái với các tên thường gọi là Tày Mường, Hàng Tổng, Tày Dọ ở miền Tây Thanh Hóa, Nghệ An.
Văn tự Thái có nguồn gốc từ hệ chữ Sanskrit (Ấn Độ). Chữ Thái cổ Việt Nam thống nhất cách cấu tạo và đọc, nhưng lại có tám loại ký tự khác nhau, đó là: chữ Thái Đen, chữ Thái Trắng Mường Lay, chữ Thái Trắng Phong Thổ, chữ Thái Trắng Phù Yên, chữ Thái Trắng Mộc Châu, Mai Châu, Đà Bắc, chữ Thái Lai Xư (Tay Thanh), chữ Thái Lai Pao (Tương Dương, Nghệ An), chữ Thái Lai Tay hay chữ Thái Quỳ Châu (Quế Phong, Quỳ Châu, Quỳ Hợp thuộc tỉnh Nghệ An).
Trong giai đoạn 1954 - 1969, chữ Thái khu tự trị Tây Bắc cũ đã được cải tiến, thống nhất và mang tên Chữ Thái Việt Nam thống nhất. Từ tháng 5/2008 chữ Thái cải tiến mới được chính thức được đưa vào sử dụng, được gọi là chữ Thái Việt Nam.
Chữ Thái Việt Nam (Tai Viet) có vùng mã Unicode U+AA80..U+AADF [13], tuy nhiên các font chữ phổ biến hiện có trong máy tính không hiện được các ký tự này.
Người Thái có nhiều kinh nghiệm, đào mương, dựng đập, bắc máng lấy nước làm ruộng. Lúa nước là nguồn lương thực chính, đặc biệt là lúa nếp. Người Thái cũng làm nương để trồng lúa, hoa màu và nhiều thứ cây khác. Từng gia đình chăn nuôi gia súc, gia cầm, đan lát, dệt vải, một số nơi làm đồ gốm... Sản phẩm nổi tiếng của người Thái là vải thổ cẩm, với những hoa văn độc đáo, màu sắc rực rỡ, bền đẹp.[14]
Người Thái sử dụng các họ chủ yếu như: Khoàng, Bạc, Bế, Bua, Bun, Cà (Hà, Kha, Khà, Mào, Sa), Cầm, Chẩu, Chiêu, Đèo, Điều, Điêu, Hà, Hoàng, Khằm Leo, Lèo, Lềm (Lâm, Lịm), Lý, Lò (Lô, La, Lo), Lộc (Lục), Lự (Lù), Lường (Lương), Manh, Mè, Nam, Nông, Ngần, Ngưu, Nho, Nhật, Panh, Pha, Phia, Phìa, Quàng (Hoàng, Vàng), Sầm (Cầm Bá, Phạm Bá), Tạ, Tày, Tao (Đào), Tạo, Tòng (Toòng), Lang (Vi), Vì (Vi), Xa (Sa), Xin, Lưu .
Người Thái có tục ở rể, vài năm sau, khi đôi vợ chồng đã có con mới về ở bên nhà chồng, nhưng bây giờ hầu như không có trừ vài trường hợp gia đình bên gái khó khăn.
Cô gái Thái khi lấy chồng phải búi tóc (ꪔꪰ꫁ꪉ ꪹꪀ꫁ꪱ tẳng cảu) - tục lệ này thường thấy rõ ràng nhất ở nhóm Thái Đen.
Người Thái quan niệm chết là tiếp tục "sống" ở thế giới bên kia. Vì vậy, đám ma là lễ tiễn những người chết về "Mường Trời" .
Thần thoại, cổ tích, truyện thơ, ca dao... là những vốn quý báu của văn học cổ truyền người Thái. Những tác phẩm thơ ca nổi tiếng của dân tộc Thái là: Xống chụ xon xao (Tiễn dặn người yêu), Khun Lú Nàng Ủa (Chàng Lú nàng Ủa).... Người Thái sớm có chữ viết nên nhiều vốn cổ (văn học, luật tục, dân ca) được ghi chép lại trên giấy bản và lá cây. Người Thái rất thích ca hát, đặc biệt là khắp. (tiếng Thái: ꪄꪾꪚ) là lối ngâm thơ hoặc hát theo lời thơ, có thể đệm đàn và múa. Nhiều điệu múa đã được trình diễn trên sân khấu trong và ngoài nước, hấp dẫn đông đảo khán giả. Hạn khuống, ném còn là hai đặc trưng văn hóa nổi bật của người Thái.
Điểm khác biệt nhất của nhà cửa người Thái so với người Việt và Hán là họ ở nhà sàn. Nhà sàn người Thái trắng có khá nhiều điểm gần với nhà Tày-Nùng. Còn nhà người Thái Đen lại gần với kiểu nhà của các cư dân Môn-Khmer. Tuy vậy, nhà người Thái Đen lại có những đặc trưng không có ở nhà của cư dân Môn-Khmer: nhà người Thái Đen nóc hình mai rùa, chỏm đầu đốc có khau cút với nhiều kiểu khác nhau. Hai gian hồi để trống và có lan can bao quanh. Khung cửa ra vào và cửa sổ có nhiều hình thức trang trí khác nhau.
Bộ khung nhà Thái có hai kiểu cơ bản là khứ tháng và khay điêng. Vì khay điêng là vì khứ kháng được mở rộng bằng cách thêm hai cột nữa. Kiểu vì này dần gần lại với kiểu vì nhà người Tày-Nùng.
Cách bố trí trên mặt bằng sinh hoạt của nhà Thái Đen khá độc đáo: các gian đều có tên riêng. Trên mặt sàn được chia thành hai phần: một phần dành làm nơi ngủ của các thành viên trong gia đình, một nửa dành cho bếp và còn là nơi để tiếp khách nam giới.
Các dòng họ người Thái nối đời làm quan lang đạo các vùng mường Tây Bắc Việt Nam, trong thời phong kiến Việt Nam từ thời nhà Hậu Lê đến thời nhà Nguyễn, theo Lê Quý Đôn gồmː